Kinh tế tuần hoàn và dệt may: Những thay đổi cần thiết để giảm thiểu tác động môi trường tại Việt Nam

Ngành dệt may Việt Nam đang đối mặt với áp lực chuyển đổi mạnh mẽ từ yêu cầu phát triển bền vững và cam kết giảm phát thải carbon toàn cầu. Với tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2024 đạt khoảng 44 tỷ USD, tăng 11.3% so với năm 2023 và vị thế là quốc gia xuất khẩu dệt may lớn thứ ba thế giới, ngành này đóng góp tới 16% GDP quốc gia và tạo việc làm cho khoảng 12% lực lượng lao động công nghiệp.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công về mặt kinh tế cũng đi kèm song song với chi phí môi trường khổng lồ. Việt Nam cam kết đạt mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 và giảm phát thải khí nhà kính ít nhất 8% vào năm 2030[1], việc chuyển đổi ngành dệt may theo mô hình kinh tế tuần hoàn không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc để duy trì tính cạnh tranh và phát triển bền vững.

Bức tranh toàn cảnh ngành dệt may Việt Nam

Ngành dệt may Việt Nam hiện đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia với khoảng 7,000 doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên và tổng cộng khoảng 3.4 triệu lao động.

Sự phát triển mạnh mẽ này đi kèm với những tác động môi trường đáng báo động. Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS), ngành dệt may của Việt Nam phát thải khoảng 5 triệu tấn CO2 mỗi năm. Con số này đặt Việt Nam trong nhóm các quốc gia có mức phát thải cao từ ngành dệt may, đặc biệt khi so với quy mô sản xuất. Các quy trình xử lý ướt hàng dệt may (sợi, vải và hàng may) sử dụng rất nhiều tài nguyên nước cho các khâu giặt, giũ, tiền xử lý, nhuộm và hoàn tất sau xử lý[2].

Theo nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Đình Thọ (Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường) và Lê Thị Lan (Bộ Tài nguyên và Môi trường), ngành dệt may toàn cầu tiêu thụ khoảng 93 tỷ m3 nước mỗi năm, đủ để cung cấp nước sinh hoạt cho 5 triệu người . Mức tiêu thụ nước của ngành dệt may chiếm tới gần 4% tổng lượng nước ngọt khai thác trên toàn cầu, cho thấy quy mô tiêu thụ tài nguyên nước của ngành rất lớn[3]. Trong bối cảnh nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm, việc giảm thiểu lượng nước sử dụng trong sản xuất dệt may vừa là thách thức lớn vừa là yêu cầu cấp thiết để hướng tới phát triển bền vững và bảo vệ môi trường toàn cầu.

Theo báo cáo về Tái chế chất thải dệt may trước khi tiêu dùng tại Việt Nam được thực hiện bởi Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ), ngành dệt may của Việt Nam tạo ra khoảng 250,000 tấn chất thải hằng năm trước khi đến tay người tiêu dùng, con số này chưa bao gồm chất thải đến từ giày dép và sản xuất trong nước. Hiện tại, khoảng 60% chất thải này được phân loại, xử lý sơ bộ và sau đó tái chế thông qua các quy trình cơ học và nhiệt cơ cơ bản. Phần lớn số đó được tái chế thành các sản phẩm có chất lượng thấp hơn (gọi là tái chế giảm chất lượng). Còn lại 40% chất thải được đưa đến các nhà máy chuyển đổi chất thải thành năng lượng hoặc các phương pháp xử lý khác[4].

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, ngành dệt may Việt Nam đã đặt ra mục tiêu giảm tiêu thụ năng lượng 15% và tiêu thụ nước 20%. Điều này phù hợp với Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ đầu năm 2022, trong đó quy định kiểm tra nghiêm ngặt đối với các nhà máy tiêu thụ năng lượng lớn. Đồng thời, các thương hiệu cũng bắt đầu yêu cầu các đối tác sản xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (ESG)[5].

Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành Quyết định 1643/QD-TTg ngày 29/12/2023 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Dệt May, Da Giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035[6]. Theo chiến lược này, ngành dệt may sẽ phát triển hiệu quả và bền vững bằng cách áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, hoàn thiện chuỗi giá trị sản xuất trong nước, tham gia hiệu quả chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển một số thương hiệu khu vực và thế giới vào năm 2035.

Kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may

Mô hình kinh tế tuần hoàn đại diện cho sự chuyển đổi từ mô hình kinh tế truyền thống "khai thác – sản xuất – tiêu dùng – thải bỏ" sang mô hình hướng tới việc tái sử dụng, tái chế và phục hồi nguyên liệu trong chu trình sản xuất và tiêu dùng, giúp kéo dài vòng đời sản phẩm và nguồn tài nguyên.

Theo Quỹ Ellen MacArthur, kinh tế tuần hoàn cho ngành dệt may cung cấp một cách tiếp cận bền vững, tái tạo để giảm thiểu chất thải và tác động môi trường, nhấn mạnh việc thiết kế, sản xuất, sử dụng dệt may để thúc đẩy độ bền, tái sử dụng, tái chế và xử lý có trách nhiệm[7].

Việc chuyển đổi theo hướng các mô hình kinh doanh dệt may tuần hoàn có thể tạo ra 700 tỷ USD giá trị kinh tế vào năm 2030 trên toàn cầu, trong khi mỗi 1% tăng thị phần của các mô hình kinh doanh tuần hoàn có khả năng giảm 13 triệu tấn CO2 tương đương[8]. Đây là cơ hội để Việt Nam giảm thiểu tác động môi trường và tăng cường tính cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng cho ngành.

Mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may đang được thúc đẩy mạnh mẽ trên toàn cầu, đặc biệt tại các thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam. Liên minh châu Âu (EU) đã thông qua Chiến lược Dệt may Bền vững và Tuần hoàn vào tháng 3/2022, chuyển đổi cách sản xuất và tiêu dùng dệt may[9]. Chiến lược EU tập trung vào ba trụ cột chính: chuyển đổi mô hình tiêu dùng, cải thiện thực hành sản xuất và đầu tư cơ sở hạ tầng[10].

EU đã đưa ra quy định về Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đối với các sản phẩm dệt may, được áp dụng từ năm 2025[11]. Điều này có nghĩa các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm thu hồi và xử lý sản phẩm sau khi người tiêu dùng ngừng sử dụng.

Kinh nghiệm từ Bangladesh từ chương trình “Hợp tác vì ngành dệt may sạch hơn” do IFC dẫn dắt đã giúp hơn 450 nhà máy dệt may giảm 35 tỷ lít tiêu thụ nước ngọt và cắt giảm 29 tỷ lít nước thải hàng năm ra môi trường. Chương trình này cũng giúp tiết kiệm 3.8 triệu megawatt giờ năng lượng mỗi năm và giảm 723,617 tấn phát thải carbon hàng năm, tương đương việc loại bỏ gần 160,000 chiếc ô tô khỏi đường phố mỗi năm[12].

Tại Việt Nam, Chương trình Cải thiện Việt Nam (VIP) của IFC đã hỗ trợ 82 nhà máy dệt may, may mặc và giày dép đầu tư 37 triệu USD vào các biện pháp hiệu quả tài nguyên, giúp họ tiết kiệm 30 triệu USD chi phí vận hành nước, hóa chất và năng lượng hàng năm. Ngoài ra, các nhà máy này đã cùng nhau tiết kiệm được 4 triệu m3 nước và giảm 303,000 tấn phát thải khí nhà kính hàng năm[13].

Áp lực tăng cường tái chế và giảm phát thải theo yêu cầu quốc tế

Việt Nam đang đối mặt với khoảng cách đáng kể so với các tiêu chuẩn quốc tế về kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may. Hiện tại, chỉ khoảng 60% chất thải dệt may được tái chế, chủ yếu thông qua tái chế cơ học cơ bản, tạo ra các sản phẩm chất lượng thấp hơn.

Hệ thống tái chế dệt may của Việt Nam gồm hơn 200 cơ sở chất thải, bao gồm các nhà thu gom, tập hợp, tiền xử lý và tái chế. Tuy nhiên, mạng lưới này rất phân mảnh và thiếu minh bạch, làm phức tạp quá trình truy xuất nguồn gốc chất thải và quy trình thẩm định. Nhiều cơ sở xử lý chất thải thường xuyên đối mặt với các vấn đề tuân thủ, với những lo ngại đáng chú ý về sức khỏe và an toàn nghề nghiệp[14].

Với EU, phần lớn các nhà sản xuất Việt Nam trong chuỗi cung ứng dệt may đang nhận được các yêu cầu xanh từ các thương hiệu lớn, như trách nhiệm xã hội và môi trường cũng như giảm phát thải carbon. Vào đầu tháng 4/2022, Ủy ban châu Âu (EC) yêu cầu hàng may mặc tại EU phải bền, có thể tái sử dụng, có thể sửa chữa. Để đạt được tiêu chuẩn này, các nhà sản xuất phải sử dụng sợi tái chế, không chứa chất độc hại, thân thiện với môi trường. Ngoài ra, khi hàng dệt may không còn sử dụng được nữa, các nhà sản xuất có trách nhiệm thu hồi và tái chế, hạn chế tối đa việc đốt và chôn lấp. Tất cả thông tin liên quan đến tính bền vững của sản phẩm phải được các nhà sản xuất cung cấp minh bạch cho người tiêu dùng thông qua hộ chiếu sản phẩm kỹ thuật số (DPP)[15].

Cơ hội và thách thức trong việc giảm thiểu tác động môi trường

Sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong nước với các tổ chức quốc tế như Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững (IDH) đã tạo ra tiền đề quan trọng để áp dụng, nhân rộng các mô hình sản xuất bền vững, thúc đẩy chứng nhận và dán nhãn sinh thái đối với các sản phẩm dệt may da giày. Điều này giúp nâng cao uy tín thương hiệu, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường toàn cầu[16].

Bên cạnh đó, xu hướng chuyển dịch sang sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường đang ngày càng rõ nét. Ví dụ, nhu cầu tiêu thụ vải dệt thoi từ sợi tơ tằm đã tăng gấp 9 lần trong quý 4/2023 so với cùng kỳ năm 2022, thể hiện sự quan tâm và đầu tư mạnh mẽ vào các vật liệu bền vững[17]. Những dự án như “Xanh hóa ngành dệt may” do WWF Việt Nam phối hợp với VITAS và sự hỗ trợ tài chính từ HSBC, Cơ quan Phát triển và Hợp tác Thụy Sĩ, và Tommy Hilfiger đã triển khai góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên nước và năng lượng, đồng thời hướng tới tăng cường quản lý lưu vực sông Mekong – một trong những nguồn tài nguyên quan trọng của Việt Nam[18].

Dù có nhiều cơ hội, ngành dệt may Việt Nam vẫn phải đối mặt với không ít thách thức trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn, giảm thiểu tác động môi trường. Trước hết, quy trình sản xuất dệt may vốn phức tạp với nhiều công đoạn khác nhau, sử dụng đa dạng loại hóa chất để tạo màu sắc và tính năng sản phẩm, dẫn đến nguy cơ phát sinh nhiều loại chất thải nguy hại.

Các hóa chất trong nhuộm và xử lý vải, như thuốc nhuộm azo, chất làm mềm, chất khử mùi, các hợp chất chứa kim loại nặng, có thể gây ô nhiễm nguồn nước và đất nếu không được xử lý đúng cách. Ngoài ra, khí thải hữu cơ dễ bay hơi (VOC) phát sinh khi sản xuất ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe người lao động, môi trường.

Đặc biệt, nước thải công nghiệp chứa nhiều chất ô nhiễm nếu không được xử lý đạt chuẩn sẽ gây ra hiện tượng phú dưỡng, làm suy thoái hệ sinh thái thủy sinh, ảnh hưởng lâu dài đến sự cân bằng sinh thái, nguồn lợi thủy sản. Thêm vào đó, việc thiếu đồng bộ, phân mảnh trong hệ thống tái chế chất thải dệt may tại Việt Nam; cùng với các vấn đề về tuân thủ quy định, an toàn nghề nghiệp, đặt ra nhiều khó khăn trong việc triển khai các giải pháp bền vững một cách hiệu quả và bền lâu.

ĐĂNG KÝ HỘI VIÊN

TRỞ THÀNH HỘI VIÊN AGTEK - MỞ RỘNG MẠNG LƯỚI - PHÁT TRIỂN KINH DOANH CỦA BẠN - GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM BỀN VỮNG 

 

  • Address: Phòng 8 - Lầu 15 - 285 Cach Mạng Tháng Tám, p.12, Quận 10, TP.HCM 
  • Phone: (08) 6 2973 567 - Fax : (08) 62 973 540
  • Website: http://agtek.org.vn/