Tín hiệu tích cực
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan 10 tháng năm 2023, xuất khẩu xơ, sợi dệt đạt gần 1,5 triệu tấn, trị giá gần 3,65 tỷ USD, tăng 12% về lượng, nhưng giảm 10,8% về giá trị. Vải mành, vải kỹ thuật là 550 triệu USD, giảm 25,4%. Hàng dệt, may là gần 27,7 tỷ USD, giảm 12,9%. Giày dép các loại 16,4 tỷ USD, giảm 18,3%. Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù 3,06 tỷ USD, giảm 10%. Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 1,6 tỷ USD, giảm 14,4%.
Mặc dù tình hình xuất khẩu hàng xơ sợi, dệt may, da giày lũy kế 10 tháng giảm so với cùng kỳ năm ngoái nhưng số liệu xuất khẩu tháng 10 đã có sự tăng trưởng so với tháng 9 năm 2023. Theo đó, xuất khẩu xơ, sợi dệt đạt gần 163 triệu tấn, giá trị gần 389 triệu USD, tăng 5,8% về lượng và tăng 4% về giá trị so với tháng 9. Vải mành, vải kỹ thuật đạt gần 54 triệu USD, tăng 5,8%. Giày dép các loại 1,7 tỷ USD, tăng 30,3%. Túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù 309 triệu USD, tăng 28,3%. Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 165 triệu USD, tăng 6,6%. Riêng mặt hàng dệt, may dù vẫn giảm, nhưng chỉ giảm 0,1% và đạt 2,57 tỷ USD.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, đó là những tín hiệu tích cực để doanh nghiệp xơ sợi, dệt may, da giày Việt Nam có thể kỳ vọng vào một viễn cảnh tốt hơn trong thời gian tới.
Bà Dương Thùy Linh, Phó Tổng thư ký phụ trách đối ngoại Hiệp hội Bông sợi Việt Nam (VCOSA) lý giải, đây không chỉ là khó khăn riêng của ngành xơ sợi, dệt may, da giày Việt Nam mà còn là khó khăn chung của các ngành xuất khẩu toàn cầu, do tổng cầu thế giới giảm. Căng thẳng địa chính trị tại châu Âu từ cuộc xung đột Nga - Ukraine khiến nền kinh tế toàn cầu suy thoái. Lạm phát kéo dài tại các thị trường xuất khẩu chủ lực như Mỹ và EU. Các nước thắt chặt chính sách tiền tệ. Người tiêu dùng có xu hướng cắt giảm chi tiêu các mặt hàng không thiết yếu, bao gồm cả hàng dệt may, da giày.
Trong khi đó, yêu cầu của các thị trường về tiêu chuẩn bền vững ngày càng khắt khe hơn. Thời gian giao hàng ngày càng rút ngắn, từ 2 tháng xuống còn 3-4 tuần. Tình trạng hàng tồn kho vẫn hiện hữu. Sự cạnh tranh của những đối thủ như Bangladesh, Myanmar ngày càng mạnh, khiến các doanh nghiệp nhận được ít đơn hàng hơn hoặc đơn hàng nhỏ lẻ. Thậm chí, giá bán thấp hơn chi phí sản xuất.
Từ nửa cuối năm ngoái đến quý II năm nay, nhiều doanh nghiệp kéo sợi đã phải giảm quy mô sản xuất chỉ còn từ 50-80% công suất hoặc thực hiện nghỉ luân phiên để duy trì sản xuất. Theo báo cáo của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV), có đến 59,2% doanh nghiệp gặp khó khăn trong quản lý đơn hàng. 51,1% doanh nghiệp khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn. 45,3% khó khăn trong thực hiện các thủ tục hành chính và tuân thủ các quy định của pháp luật. 31,1% có nguy cơ hình sự hóa các giao dịch kinh tế.
Tuy nhiên, từ tháng 7 cho đến nay, thị trường đã có dấu hiệu phục hồi dần sau khi Trung Quốc mở cửa trở lại sau thời gian áp dụng chính sách Zero COVID. Các thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam quý III đều ghi nhận mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) dương, như: Mỹ tăng 2%, EU 0,6%, Trung Quốc 5%, Hàn Quốc 1,4%.
Chỉ số giá sợi đầu vào của các nhà sản xuất sợi tại Trung Quốc tăng nhẹ cho thấy, nhu cầu của mặt hàng này đang tốt hơn so với hồi đầu năm. Lượng hàng tồn kho của các thương hiệu lớn như Nike, H&M,… đã giảm đáng kể. Tính đến thời điểm hiện tại, hầu hết các doanh nghiệp kéo sợi đã có thể hoạt động 100% công suất. Vì vậy, theo bà Linh, có thể coi đây là những tín hiệu kỳ vọng hồi phục tăng trưởng thời gian tới.
Đồng quan điểm, theo chuyên gia kinh tế, Tiến sỹ Huỳnh Thanh Điền, năng lực của ngành dệt may Việt Nam là rất lớn. 98% phục vụ cho xuất khẩu. Trong khi đó, Việt Nam là nền kinh tế có độ mở rất lớn. Do đó, khi thị trường bên ngoài khó khăn, các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó là dễ hiểu.
Cụ thể, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các thị trường nhập khẩu dệt may lớn như Mỹ, châu Âu đều thấp hơn so với năm ngoái. Sức mua của người dân Mỹ đang rất thấp. Lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm nhưng chưa đồng bộ, trong đó lạm phát ở Mỹ vẫn chưa được kiểm soát tốt. Nền kinh tế Trung Quốc mặc dù đã được mở cửa, tăng trưởng, nhưng tăng không như kỳ vọng. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng là nhà xuất khẩu hàng thời trang lớn nên khi họ mở cửa trở lại, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhất định do phải chia sẻ thị phần.
Tuy nhiên, theo tiến sỹ Huỳnh Thanh Điền, mặc dù 3 quý đầu năm vẫn ghi nhận con số xuất khẩu giảm, nhưng số giảm của quý sau đã thấp hơn quý trước. Cụ thể, quý II giảm 13% so với quý I, nhưng quý III chỉ giảm 6,4% so với quý II. Đó là những tín hiệu cho thấy, từ quý III đã có sự khởi sắc hơn.
Kỳ vọng phục hồi
Theo bà Dương Thùy Linh, VCOSA dự báo, thời gian tới, ngành dệt may Việt Nam vẫn tiếp tục đối mặt với những thách thức do đơn hàng ở các thị trường xuất khẩu chính như châu Âu, Mỹ vẫn giảm sút và nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có đủ đơn hàng cho quý IV. Tình trạng cầu thấp này có thể kéo dài sang năm 2024. Vì thế, dự kiến xuất khẩu dệt may của Việt Nam năm nay nhiều khả năng chỉ ở mức trên dưới 40 tỷ USD, giảm 10% so với năm ngoái.
Tuy nhiên, VCOSA vẫn có cùng quan điểm với một số chuyên gia kinh tế cho rằng, “thời điểm xấu nhất của ngành dệt may hiện tại đã đi qua”. Với những nỗ lực cao của Chính phủ, doanh nghiệp, cũng như nhu cầu thị trường gia tăng vào các dịp lễ lớn cuối năm kỳ vọng ngành xuất khẩu tỷ USD sẽ hồi phục trong thời gian tới.
Theo VCOSA, về kinh tế vĩ mô, chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI) cho cả năm 2023 ước tính tăng từ 3,2 – 3,6% sẽ giúp ổn định tỷ lệ lạm phát, duy trì thu nhập của người dân, tránh thắt chặt chi tiêu. Lãi suất cho vay đang tiếp tục giảm giúp doanh nghiệp đỡ gặp khó khăn hơn trong quá trình vay vốn. Tỷ giá USD và VNĐ được dự báo tăng từ 2-3%, trong khi các quốc gia cạnh tranh với Việt Nam trong 2 năm gần đây lại giảm giá trị đồng nội tệ, sẽ hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu.
Ngoài ra, ngành dệt may Việt Nam vẫn có lợi thế cạnh tranh về chi phí nhân công, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi thuế thu nhập cá nhân. Việt Nam cũng đã và đang ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với hàng loạt các thị trường lớn. Các doanh nghiệp FDI cũng đang tăng cường sản xuất vải từ nguồn cung sợi trong nước, nên Việt Nam vẫn luôn được các doanh nghiệp FDI lựa chọn là điểm đến đầu tư lý tưởng.
Các doanh nghiệp Việt Nam mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn theo xu hướng bền vững của thế giới, nhưng hiện nay, các doanh nghiệp đang cho thấy những tín hiệu tích cực khi một số nhà máy kéo sợi đã có thể đạt được các tiêu chuẩn quốc tế như Global Recycle Standard, Oeko-Tex, BCI,…. Nhiều nhà máy kéo sợi đã và đang bắt đầu sử dụng bông hữu cơ; sợi tự nhiên như sợi cà phê, sợi tre và các loại sợi tái chế; tận dụng mái nhà xưởng để lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời;…
VCOSA khuyến nghị các doanh nghiệp cần tính toán linh hoạt thị trường, cả nội địa và xuất khẩu, mở rộng ở các thị trường có tình hình chính trị ổn định như châu Á để duy trì sản xuất, tận dụng tốt mọi cơ hội để có thể sớm phục hồi phát triển.
Theo Tiến sỹ Huỳnh Thanh Điền, hàng năm, các tổ chức kinh tế lớn như Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) thường có 2 đợt dự báo vào tháng 4 và tháng 9. Đáng mừng là, đợt dự báo tháng 9 vừa qua, các tổ chức này đều dự báo tăng trưởng kinh tế tốt hơn dự báo hồi tháng tư. Theo đó, GDP 2023 của các thị trường xuất khẩu lớn sẽ là GDP dương.
Đó là cơ sở cho sự kỳ vọng về sự phục hồi dần nhu cầu của các thị trường này. Các doanh nghiệp cần yên tâm và tin tưởng rằng, quy luật của tăng trưởng kinh tế là sau giai đoạn suy thoái sẽ đến giai đoạn phục hồi và tăng trưởng. Thực tế các cuộc khủng hoảng kinh tế thời gian qua đã chứng minh rõ điều đó.
Tuy nhiên, mỗi chu kỳ sẽ xuất hiện hành vi mới, xu hướng mới, cách làm mới mà các doanh nghiệp phải chủ động nắm bắt để tồn tại. Cụ thể, trong bối cảnh hiện nay, mặc dù nền kinh tế toàn cầu suy thoái, các thị trường lớn như châu Âu vẫn thúc đẩy thực thi các yêu cầu, tiêu chuẩn cao về xanh hóa, về phát triển bền vững.
Đó là những thách thức lớn nhưng cũng tạo ra nhiều cơ hội mới. Doanh nghiệp nào thích ứng tốt sẽ có cơ hội vươn lên. Ngược lại, có thể sẽ phải rời thị trường, nhường sân chơi cho doanh nghiệp khác, tiến sỹ Huỳnh Thanh Điền nhấn mạnh.