Ngành thời trang Mỹ khó thoát khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc
Các công ty thời trang Mỹ khó có thể nhìn thấy một tương lai không cần dựa vào chuỗi cung ứng ở Trung Quốc vì chỉ một số ít nhà máy ở bên ngoài nước này có đủ khả năng sản xuất áo quần đạt chất lượng và số lượng đúng theo yêu cầu.
Ít nhà cung cấp thay thế bên ngoài Trung Quốc
Khi thành lập công ty thời trang thể thao Actively Black có trụ sở ở Los Angeles năm 2020, Lanny Smith đã thuê các nhà máy ở Trung Quốc để sản xuất. Nhưng trong năm ngoái, lo ngại về sự chậm trễ sản xuất do lệnh phong tỏa kiểm soát Covid-19 ở Trung Quốc, Smith đã tìm cách gia công sản xuất ở nơi khác. Ông đã gửi hàng mẫu cho một chuyên gia môi giới chuỗi cung ứng, người đã đảm bảo rằng sẽ có những lựa chọn thay thế ở châu Mỹ Latin. Nhưng sau đó, người môi giới báo lại rằng sẽ không công ty nào Tây bán cầu có thể thay thế các nhà máy ở Trung Quốc.
Đối với các công ty Mỹ như Actively Black, việc mua hàng từ Trung Quốc trở nên khó khăn hơn trong những năm gần đây do thuế quan tăng, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, nhà máy đóng cửa theo chính sách “zero Covid” của Bắc Kinh cũng như căng thẳng địa chính trị Mỹ-Trung gia tăng.
Những lo ngại đó đã dẫn đến việc giới lãnh đạo ngành công nghiệp thời trang phương Tây tìm cách giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp Trung Quốc. Nhưng việc rời khỏi Trung Quốc không dễ dàng. Các nhà sản xuất sản phẩm công nghệ thấp, tỷ suất lợi nhuận thấp như quần áo, giày dép, đồ gia dụng và hành lý nhận thấy có rất ít nhà máy bên ngoài Trung Quốc có máy móc hoặc lực lượng lao động lành nghề để may đường may phẳng sử dụng sáu kim, cần thiết cho các trang phục như áo ngực và quần short thể thao không làm xước da của Actively Black.
Kể từ những năm 1990, Trung Quốc đã chi hàng trăm tỉ đô la để trở thành trung tâm sản xuất dệt may hàng đầu thế giới. Các nhà máy ở đây có máy móc hiện đại và chuyên môn cần thiết để sản xuất sản phẩm chất lượng với khối lượng và tốc độ khó có công ty nào sánh kịp. Các nhà máy nằm dọc theo đoạn đường dài hơn 100 km từ Thâm Quyến đến Quảng Châu có thể dệt, nhuộm, may, cắt, dán nhãn và đóng gói bất cứ thứ gì từ áo phông đến áo vest tuxedo. Đầu tư khổng lồ của Trung Quốc vào đường cao tốc, đường sắt, trung tâm hàng không và cảng biển đã tạo ra một con đường thông suốt từ cổng nhà máy đến người tiêu dùng trên toàn thế giới.
Gặp khó khăn khi chuyển đến các nước khác
“Nỗ lực tách khỏi Trung Quốc và chuyển sản xuất hàng thời trang đến những nơi khác trên thế giới thực sự khó khăn”, Kurt Cavano, Giám đốc điều hành của Nimbly, một nền tảng phần mềm kết nối các thương hiệu quần áo với các nhà máy và nhà cung cấp, nhận định.
Bất chấp căng thẳng gia tăng, thương mại Mỹ-Trung tiếp tục mạnh mẽ. Năm 2022, Mỹ nhập khẩu 537 tỉ đô la hàng hóa từ Trung Quốc, thấp hơn một chút so với mức kỷ lục 539 tỉ đô la hồi năm 2018. Đối với hàng may mặc, Trung Quốc vẫn là nhà xuất khẩu lớn nhất sang Mỹ, với hơn 10 tỉ đơn vị chỉ riêng trong năm ngoái, gần gấp đôi so với Việt Nam, theo Bộ Thương mại Mỹ. Phần lớn các nhà cung cấp của Levi Strauss, Nike và VF Corp, chủ sở hữu North Face, đều ở Trung Quốc.
Lợi thế của Trung Quốc lớn đến mức một số công ty Mỹ phải phục hồi ít nhất một phần hoạt động sản xuất của họ ở đó sau khi rời đi. Steven Madden, nhà sản xuất giày và phụ kiện có trụ sở ở bang New York, đã chuyển khoảng một nửa hoạt động sản xuất túi xách từ Trung Quốc sang Campuchia trong những năm gần đây trong nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung ứng và tận dụng các mức thuế thấp hơn. Nhưng chương trình ưu đãi thuế quan đó đã hết hạn vào năm 2020. Ed Rosenfeld, Giám đốc điều hành của Steven Madden, nói: “Điều đó khiến chúng tôi trong số trường hợp đảo ngược việc chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc”.
Các lựa chọn thay thế có thể đi kèm với sự phức tạp về kinh tế và chính trị. Haggar Clothing Co., công ty sản xuất quần tây nam hàng đầu ở Mỹ, đã chuyển khoảng 5% sản lượng từ châu Á sang Kenya và Ethiopia vài năm trước. Nhưng các nhà máy ở Kenya mất quá nhiều thời gian để tìm nguồn vải và Ethiopia mất quy chế miễn thuế với Mỹ vào năm 2022 do bị cáo buộc vi phạm nhân quyền trong cuộc nội chiến ở nước này. Vì vậy, Haggar đã ngừng sản xuất ở cả hai nước. Dù Haggar chỉ gia công sản xuất một tỷ lệ nhỏ các sản phẩm tại Trung Quốc, nhưng khoảng 20% nguyên liệu thô của công ty đến từ nước này. Vải sản xuất ở Trung Quốc vẫn rất cần thiết cho quần tây và áo vest của Haggar. Tonny Anzovin, Giám đốc phụ trách chuỗi cung ứng của Haggar, nói: “Trung Quốc vẫn là đầu tàu về vải. Mọi người thấy khó chuyển nhiều thứ cùng lúc ra khỏi Trung Quốc vì các nhà cung cấp ở đây làm rất tốt. Chuyên môn và thiết bị đều có sẵn ở đó”.
Trung Quốc chi phối nguồn cung nguyên liệu dệt may
Và dù đã chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc, các công ty thời trang Mỹ thường phải làm việc với các nhà cung cấp thuộc sở hữu của Trung Quốc hoặc tìm nguồn cung ứng nguyên liệu từ nước này.
Sự chi phối của một số nhà cung cấp Trung Quốc có thể gây khó khăn cho nỗ lực tìm giải pháp thay thế. Theo Công ty nghiên cứu Altana Technologies, Tập đoàn dệt may Texhong International Group của Trung Quốc và hàng chục công ty con chiếm gần 2/3 thương mại toàn cầu đối với một số loại nguyên liệu vải cotton-spandex.
Nhiều công ty dệt may của Trung Quốc đã thành lập công ty con ở nước ngoài để đa dạng hóa sản xuất của chính họ và hưởng lợi từ chi phí lao động thấp hơn. Tập đoàn sản xuất hàng may mặc khổng lồ Shenzhou International Group đã đầu tư rất nhiều vào Việt Nam và Campuchia. Hiện nay, chỉ có khoảng một nửa số nhà máy của tập đoàn này đặt ở Trung Quốc, giảm so với 90% vào năm 2013. Các nhà sản xuất dệt may của Trung Quốc cũng thường dựa vào mạng lưới các nhà cung cấp khổng lồ của họ để giữ chân các công ty thời trang Mỹ. Vicky Wu, chủ một nhà máy may với hơn 60 công nhân ở trung tâm thành phố Quảng Châu, nói: “Hãy tưởng tượng bạn muốn đính sequin lên 100 chiếc áo phông. Bạn có thể mua chúng ở một cửa hàng trên cùng một con phố ở Quảng Châu. Dù những nước khác có lợi thế chi phí lao động thấp hơn, nhưng chúng tôi không thể rời khỏi hệ sinh thái này”.
Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris đang cố gắng thúc đẩy ngành thời trang Mỹ đầu tư vào khu vực Trung Mỹ để giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc, đồng thời tạo việc làm, giúp ngăn chặn dòng di cư từ khu vực này sang Mỹ. Nhà Trắng cho biết những nỗ lực của bà đã mang lại hơn 4 tỉ đô la cam kết đầu tư. Công ty thời trang Columbia Sportswear, có trụ sở ở bang Oregon, đã cam kết mua tới 200 triệu đô la sản phẩm từ các nhà máy ở Trung Mỹ trong vòng 5 năm tới. Theo Peter Bragdon, Giám đốc hành chính của Columbia Sportswear, các sản phẩm này là quần áo thể thao đơn giản vì các nhà cung cấp ở Trung Mỹ thiếu sự đa dạng về vải, chỉ và các vật liệu khác có sẵn ở châu Á. Ông nói: “Hoạt động sản xuất thời trang quy mô lớn đã phát triển ở Trung Quốc trong suốt nhiều thập niên. Điều này sẽ không xảy ra chỉ trong một đêm ở bất cứ nơi nào khác”
Theo Bloomberg