Nhiều mặt hàng chủ lực vẫn chưa khôi phục được
Tổng cầu dệt may toàn thế giới năm 2020 bị sụt giảm khá lớn do tác động của Covid-19. Là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực, ngành dệt may Việt Nam cũng không tránh khỏi suy thoái dưới tác động của đại dịch. Theo TS. Nina Yiu, Chủ nhiệm ngành Quản trị doanh nghiệp thời trang (Đại học RMIT), việc hàng loạt tên tuổi lớn trong lĩnh vực bán lẻ thời trang trên thế giới đóng cửa hàng ngàn cửa hàng đã ảnh hưởng trực tiếp đến các nhà máy sản xuất thời trang và may mặc tại Việt Nam. Hiện tại, các đơn hàng may mặc đã giảm đáng kể do Covid-19 và dự đoán sẽ giảm khoảng 70 - 80% tại thị trường Hoa Kỳ.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam cho biết, mục tiêu xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam trong năm 2020 là đạt con số 40 - 41 tỷ USD, nhưng vì Covid nên 9 tháng qua mới xuất khẩu được khoảng 25,7 tỷ USD. Hiện tại, ngành dệt may Việt Nam đang dần phục hồi ở các thị trường như Hoa Kỳ, EU. Tuy nhiên, quá trình phục hồi cũng đang gặp nhiều khó khăn, mới có mặt hàng đồ thể thao, đồ mặc nhà, quần áo trẻ em, đồ nỉ quay lại phục hồi nhanh một chút.
Theo ông Giang, có 5 mặt hàng chủ lực của ngành đến nay vẫn chưa khôi phục được. Trong đó, đứng đầu là sơ mi nam - nữ, giảm đến 80%; veston nam - nữ, lượng giảm từ 50 - 70%. Các sản phẩm đầm nữ mới khôi phục được 50%; áo jacket, quần áo trẻ em cao cấp mới khôi phục được khoảng 60%. Như vậy, so với mục tiêu ban đầu xuất khẩu 40 - 41 tỷ USD năm 2020 thì đây là thách thức rất lớn với ngành dệt may Việt Nam.
Tận dụng “thị trường ngách”
Nhận định về cơ hội đối với ngành dệt may Việt Nam hậu Covid, TS. Nina Yiu lạc quan rằng, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu thời trang và dệt may sau khi phục hồi từ Covid-19. TS. Yiu đã đề xuất một số chiến lược ngắn và dài hạn giúp doanh nghiệp Việt Nam giảm thiểu thiệt hại. “Doanh nghiệp nên cẩn thận xem lại kế hoạch chiến lược, nhu cầu hoạt động và thị trường hiện tại. Điều quan trọng là xem xét mức độ ưu tiên của các đơn đặt hàng, thiết kế lại quy trình quản lý chuỗi cung ứng, ứng dụng mô hình vận hành linh hoạt và lên kế hoạch sản xuất số lượng lớn cho từng giai đoạn”, bà Yiu nêu quan điểm.
Theo TS. Nina Yiu, nhiều nhà máy may mặc Việt Nam đã chuyển sang sản xuất khẩu trang từ khi đại dịch bắt đầu vì đây là giải pháp tạm thời để vượt qua khó khăn. Mặc dù giá khẩu trang rất thấp và tỉ suất lợi nhuận không nhiều, nhưng các đơn hàng khẩu trang có thể bù đắp chi phí lao động. TS. Nina Yiu đề xuất, doanh nghiệp Việt Nam nên cân nhắc vận hành các dòng sản phẩm khác nhau và đa dạng hóa các lĩnh vực “kinh doanh ngách” sang những mặt hàng mới hoặc phát triển thị trường. Việt Nam nên phát triển các thương hiệu thời trang trong nước dựa trên nét văn hóa và nghề thủ công độc đáo của mình, để tạo ra cân bằng trong phát triển kinh tế. Khẩu trang và thiết bị bảo hộ cá nhân (PPE) đã và đang duy trì nhu cầu cao trên thị trường.
Mặt khác, khi cạnh tranh trong ngành thời trang tăng lên, chuyển đổi kỹ thuật số trong lĩnh vực thời trang sẽ là yếu tố quyết định. Vì vậy, cần tận dụng công nghệ điện toán 3D để giảm chi phí trong việc lên mẫu. Đồng thời, có thể chọn những màu sắc và số lượng để nhuộm sao cho có thể sinh lời, bằng cách giữ lại vải chưa qua xử lý trong quy trình sản xuất sợi và vải có thể dùng để sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau.
“Sau đại dịch, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ thấy nhu cầu đối với sản phẩm của họ, đặc biệt là hàng thời trang và dệt may, tăng lên. Cơ hội lội ngược dòng sẽ ở việc phát triển thiết kế vải và sản xuất trong nước. Các nhà máy sản xuất nên cân nhắc kết hợp với các công ty thời trang liên doanh để tập trung đầu tư cho tương lai” - TS. Nina Yiu nhấn mạnh.